Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Cuộc chạy đua vũ trang Anh-Đức trong hải quân

[sửa] Cuộc chạy đua vũ trang Anh-Đức

Vua George V (bên trái) cùng Đô đốc Callaghan thị sát chiếc thiết giáp hạm HMS Neptune.
Việc chế tạo chiếc Dreadnought lại trùng hợp với sự gia tăng căng thẳng trong mối quan hệ giữa Anh Quốc và Đức. Đức bắt đầu chế tạo một hạm đội chiến trận lớn vào những năm 1890. Đây là một phần của chính sách có chủ tâm thách thức ưu thế thống trị hải quân của Anh. Cùng với việc ký kết Thỏa thuận Thân thiện giữa Anh và Pháp vào tháng 4 năm 1904, điều ngày càng trở nên rõ ràng là đối thủ hải quân chủ yếu của Anh sẽ là Đức, vốn đang xây dựng một hạm đội lớn hiện đại theo các đạo luật của Tirpitz. Sự cạnh tranh này đã thúc đẩy hình thành nên hai hạm đội dreadnought lớn nhất thế giới vào giai đoạn trước chiến tranh.[93]
Phản ứng đầu tiên của Đức đối với Dreadnoughtlớp Nassau, đặt lườn vào năm 1907. Tiếp theo là lớp Helgoland vào năm 1909. Cùng với hai chiếc tàu chiến-tuần dương, một kiểu tàu chiến mà Đức ít ngưỡng mộ hơn so với Fisher, nhưng lại được phép chế tạo vì được xem như một tàu tuần dương bọc thép thay vì một tàu chiến chủ lực; chúng cho phép Đức có tổng cộng mười tàu chiến chủ lực đã hoặc đang chế tạo cho đến năm 1909. Mặc dù các tàu chiến Anh hơi nhanh và mạnh hơn so với đối thủ Đức, nhưng một tỉ lệ lợi thế chỉ có 12:10 quả là đáng thất vọng vì thấp hơn nhiều so với tỉ lệ 2:1 mà Hải quân Hoàng gia muốn duy trì.[94]
Vào năm 1909, Quốc hội Anh chấp thuận chế tạo bốn tàu chiến chủ lực bổ sung, giữ hy vọng là Đức sẽ sẵn lòng thương lượng một hiệp ước giới hạn số lượng thiết giáp hạm. Nếu không tìm được giải pháp như vậy, sẽ có thêm bốn chiếc nữa được đặt lườn vào năm 1910. Ngay cả một giải pháp thỏa hiệp như vậy, nhưng đặt trong bối cảnh những cải cách xã hội đang diễn ra, dẫn tới một sự tăng thuế nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách do việc đóng tàu đã đủ để kích động một cuộc khủng hoảng hiến pháp cho Anh Quốc trong các năm 1909-1910. Vào năm 1910, kế hoạch đóng tám tàu của Anh được xúc tiến, bao gồm bốn chiếc thuộc lớp Orion, và được bổ sung bởi các tàu chiến-tuần dương được Australia và New Zealand đặt mua. Cùng khoảng thời gian đó, Đức chỉ đặt lườn ba chiếc, khiến Anh Quốc có một ưu thế 22:13. Quyết tâm của Anh thể hiện qua chương trình chế tạo đã khiến Đức phải tìm kiếm một sự kết thúc cho cuộc chạy đua vũ trang bằng con đường thương lượng. Dù mục tiêu mới của Bộ Hải quân Anh nhằm đạt 60% ưu thế đối với Đức cũng khá suýt soát với mục đích của Tirpitz cắt giảm ưu thế của Anh còn 50%, nhưng các cuộc đàm phán lại bị sa lầy trong câu hỏi liệu phạm vi của hiệp ước có bao gồm các tàu chiến-tuần dương của Khối Thịnh Vượng Chung hay không, cũng như là những vấn đề không liên quan đến hải quân, như việc Đức đòi hỏi phải xác nhận chủ quyền của họ trên vùng Alsace-Lorraine.[95]
Cuộc chạy đua vũ trang dreadnought gia tăng trở lại trong năm 19101911, khi Đức đặt lườn bốn tàu chiến chủ lực mỗi năm trong khi phía Anh là năm chiếc. Căng thẳng lên đến tột điểm vào lúc thông qua Đạo luật Hải quân của Đức vào năm 1912. Luật này nêu rõ việc xây dựng một hạm đội Đế quốc Đức bao gồm 33 thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương, vượt trội hơn Hải quân Hoàng gia tại vùng biển nhà. Tình hình thêm tệ hại cho người Anh, khi Hải quân Đế quốc Áo-Hung bắt đầu chế tạo bốn thiết giáp hạm, còn Ý đã có bốn và đang chế tạo thêm hai. Những nguy cơ này khiến Hải quân Hoàng gia không thể tiếp tục đảm bảo hoàn toàn cho những lợi ích sống còn của Đế quốc Anh. Anh Quốc đối mặt với sự lựa chọn hoặc phải chế tạo thêm nhiều thiết giáp hạm, hoặc rút lui khỏi Địa Trung Hải, hoặc đi tìm một liên minh quân sự với Pháp. Đóng thêm tàu là một sự tốn kém không thể chấp nhận được vào thời điểm mà ngân sách dành cho phúc lợi xã hội đang được đòi hỏi. Rút lui khỏi Địa Trung Hải có nghĩa là một mất mát lớn về ảnh hưởng, làm yếu đi chính sách ngoại giao của Anh tại khu vực này và làm lung lay sự ổn định của Đế chế Anh. Lựa chọn duy nhất khả thi, cũng là giải pháp mà Bộ trưởng Hải quân Winston Churchill đề nghị, là phá vỡ truyền thống về chính sách của quá khứ để có một sự dàn xếp về quân sự với Pháp. Theo đó, Pháp sẽ đảm nhận trách nhiệm ngăn chặn Ý và Áo-Hung tại Địa Trung Hải, đổi lấy việc Anh Quốc sẽ đảm bảo an ninh cho bờ biển phía Bắc của Pháp. Cho dù có một số phản đối của các chính trị gia Anh, Hải quân Hoàng gia bắt đầu tổ chức lại trên cơ sở này vào năm 1912.[96]
Mặc dù đã gây ra những hệ quả chiến lược quan trọng, Đạo luật Hải quân 1912 chỉ có ít ảnh hưởng lên tương quan giữa các lực lượng thiết giáp hạm. Anh Quốc đã đáp trả bằng cách đặt lườn thêm mười chiếc siêu-dreadnought mới trong các tài khóa 1912 và 1913, những chiếc thuộc lớp Queen ElizabethRevenge với những cải tiến lớn về vũ khí, tốc độ và sự bảo vệ; trong khi Đức chỉ đặt lườn năm chiếc do phải tập trung các nguồn lực cho lục quân.[97]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét