Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra đã làm ngưng cuộc chạy đua vũ trang dreadnought khi ngân quỹ và nguồn lực kỹ thuật được chuyển cho những nhu cầu có ưu tiên cao. Các xưởng đúc chế tạo pháo cho thiết giáp hạm được chỉ định sản xuất pháo mặt đất cho bộ binh thay thế, và các xưởng tàu tràn ngập đơn đặt hàng những con tàu nhỏ. Các thế lực hải quân yếu hơn tham gia cuộc chiến này: Pháp, Áo-Hung, Ý và Nga, ngừng hoàn toàn chương trình đóng thiết giáp hạm của họ; trong khi Anh và Đức tiếp tục chế tạo thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương nhưng với một tiến độ chậm hơn.[144]
Tại Anh, mệnh lệnh đình chỉ đóng thiết giáp hạm của chính phủ, cùng với việc Jackie Fisher quay trở lại Bộ Hải quân vào năm 1914, đã chuyển trọng tâm vào việc chế tạo tàu chiến-tuần dương. Những chiếc đang đóng dang dỡ của hai lớp thiết giáp hạm Revenge và lớp Queen Elizabeth được hoàn tất, nhưng hai chiếc Revenge cuối cùng được thiết kế lại thành những tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Renown. Fisher tiếp nối những con tàu này bằng lớp Courageous càng cực đoan hơn nữa; những con tàu cực nhanh và trang bị vũ khí hạng nặng nhưng với vỏ giáp tối thiểu 76 mm (3 inch), được gọi là những “tàu tuần dương nhẹ lớn” nhằm lách tránh những quy định của Nội các đối với tàu chiến chủ lực mới. Đam mê về tốc độ của Fisher lên đến cực điểm trong đề nghị của ông cho chiếc HMS Incomparable, một tàu chiến-tuần dương khổng lồ có vỏ giáp nhẹ.[145]
Tại Đức, hai chiếc thuộc lớp Bayern trước chiến tranh được dần dần hoàn tất, nhưng hai chiếc khác đã đặt lườn vẫn chưa hoàn thành vào lúc chiến tranh kết thúc. SMS Hindenburg, vốn cũng đặt lườn trước chiến tranh, được hoàn tất vào năm 1917. Lớp tàu chiến-tuần dương Mackensen được thiết kế vào năm 1914-1915, được bắt đầu nhưng không bao giờ hoàn thành.[146]
Cho dù việc đóng thiết giáp hạm có khoảng thời gian tạm lắng trong cuộc thế chiến, giai đoạn 1919-1922 lại chứng kiến mối đe dọa của một cuộc chạy đua vũ trang mới giữa Anh Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Trận Jutland đã có một ảnh hưởng lớn đối với những thiết kế được chế tạo trong giai đoạn này. Những chiếc đầu tiên xuất hiện trong bức tranh này là các tàu chiến-tuần dương lớp Admiral của Anh, được thiết kế vào năm 1916. Kết quả của trận Jutland cuối cùng đã thuyết phục được Bộ Hải quân Anh rằng những chiếc tàu chiến-tuần dương có vỏ giáp nhẹ là quá mong manh, và do đó thiết kế cuối cùng của lớp Admiral bao gồm vỏ giáp được tăng cường đáng kể, làm gia tăng trọng lượng rẽ nước lên đến 42.000 tấn. Tuy nhiên, việc khởi xướng ra cuộc chạy đua vũ trang hải quân mới chính là giữa Hải quân Nhật Bản và Hải quân Hoa Kỳ. Đạo luật Hải quân 1916 của Hoa Kỳ đã chấp thuận đóng 156 tàu chiến mới, bao gồm mười thiết giáp hạm và sáu tàu chiến-tuần dương. Lần đầu tiên trong lịch sử, Hoa Kỳ đã đe dọa ưu thế dẫn đầu toàn cầu của Anh Quốc trong lĩnh vực này.[147] Chương trình này được khởi đầu chậm chạp, một phần là bởi mong muốn học hỏi và áp dụng những bài học có được từ trận Jutland, và chưa bao giờ được đáp ứng hoàn toàn. Tuy nhiên, các tàu chiến mới của Hoa Kỳ: lớp thiết giáp hạm Colorado và lớp tàu chiến-tuần dương Lexington, đã có bước phát triển về chất lượng vượt qua các lớp Queen Elizabeth và Admiral của Anh Quốc khi trang bị cỡ pháo 406 mm (16 inch).[148]
Cùng lúc đó, Hải quân Đế quốc Nhật Bản cuối cùng cũng đạt được sự phê chuẩn cho Chương trình Hạm đội 8-8 của họ. Lớp Nagato, được chấp thuận vào năm 1916, mang tám khẩu pháo 406 mm (16 inch) giống như các đối thủ Mỹ. Đạo luật ngân sách hải quân năm tiếp theo đồng ý cho đóng thêm hai thiết giáp hạm và hai tàu chiến-tuần dương. Những thiết giáp hạm này sẽ thuộc lớp Kaga mang mười pháo 406 mm (16 inch), trong khi các tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi cũng mang mười pháo 406 mm (16 inch) và được thiết kế để đạt được tốc độ 55,5 km/h (30 knot), một khả năng đánh bại cả Admiral của Anh Quốc và Lexington của Hoa Kỳ.[149]
Tình hình càng trở nên tồi tệ hơn vào năm 1919 khi Tổng thống Woodrow Wilson đề nghị một chương trình bành trướng Hải quân Hoa Kỳ hơn nữa, yêu cầu ngân sách cho việc đóng thêm mười thiết giáp hạm và sáu tàu chiến-tuần dương, bổ sung vào việc hoàn tất Chương trình Chế tạo 1916, mà những chiếc thuộc lớp South Dakota (1920) vẫn chưa được đặt lườn. Để đáp trả, Nghị viện Nhật Bản cuối cùng đồng ý cho hoàn tất chương trình “Hạm đội 8-8”, bổ sung thêm bốn thiết giáp hạm.[150] Những con tàu thuộc lớp Kii này sẽ có tải trọng 43.000 tấn, trong khi thiết kế tiếp theo sau, lớp Số 13, sẽ trang bị pháo cỡ 457 mm (18 inch).[151] Nhiều người trong Hải quân Nhật vẫn chưa thỏa mãn, đòi hỏi một “Hạm đội 8-8-8” với tổng cộng 24 thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương hiện đại.
Anh Quốc, bị suy kiệt bởi Thế Chiến I, đối đầu với nguy cơ bị tụt lại phía sau Mỹ và Nhật. Không có tàu chiến nào được tiếp tục sau lớp Admiral, và trong lớp này chỉ có HMS Hood được hoàn tất. Một kế hoạch do Bộ Hải quân đệ trình vào tháng 6 năm 1919 dự trù một hạm đội sau chiến tranh bao gồm 33 thiết giáp hạm và tám tàu chiến-tuần dương, có thể được đóng và duy trì ở mức chi phí 171 triệu Bảng Anh mỗi năm (tương đương với khoảng 5,83 tỉ Bảng Anh ngày hôm nay); nhưng chỉ có 84 triệu Bảng được cho phép. Bộ Hải quân sau đó yêu cầu một số lượng tuyệt đối thêm tối thiểu tám thiết giáp hạm.[152] Chúng sẽ là những tàu chiến-tuần dương thuộc lớp G3 với pháo 406 mm (16 inch) và tốc độ cao, cùng với thiết giáp hạm lớp N3 trang bị pháo 457 mm (18 inch).[153] Đức đã không tham gia vào cuộc cạnh tranh hải quân ba bên này: Hiệp ước Versailles quy định những điều kiện ngặt nghèo nhằm cản trở việc Đức tái vũ tranh, đặc biệt là trong lĩnh vực hải quân; hầu hết hạm đội dreadnought Đức đã bị đánh chìm tại Scapa Flow bởi thủy thủ đoàn của chúng vào năm 1919; số còn lại bị tịch thu như là chiến lợi phẩm.[A 10][154]
Thay vì cắt giảm từng phần chương trình chế tạo rộng rãi và tốn kém này, các cường quốc hải quân đã thỏa thuận được Hiệp ước Hải quân Washington vào năm 1922. Hiệp ước này đưa ra một danh sách các tàu chiến, bao gồm đa số các dreadnought cũ hơn và hầu hết mọi chiếc mới hơn đang được chế tạo, vốn sẽ bị tháo dỡ hoặc không sử dụng theo cách nào đó. Nó còn công bố một “kỳ nghỉ” dài hạn cho ngành đóng tàu khi không có thiết giáp hạm hay tàu chiến-tuần dương mới nào được đặt lườn trong hai mươi năm tiếp theo. Những chiếc còn sống sót sau hiệp ước, bao gồm những chiếc siêu-dreadnought hiện đại nhất của hải quân mọi nước, đã hình thành nên phần lớn của sức mạnh tàu chiến chủ lực trên thế giới trong suốt những năm 1920 và 1930, với một số được hiện đại hóa, đã tiếp tục chiến đấu trong Thế Chiến II. Những chiếc được chế tạo trong phạm vi bị giới hạn của Hiệp ước nhằm thay thế những chiếc lạc hậu được biết đến như là những thiết giáp hạm hiệp ước.[155]
Từ lúc này trở đi, thuật ngữ “dreadnought” ít còn được sử dụng rộng rãi. Đa số thiết giáp hạm tiền-dreadnought đều đã bị tháo dỡ hoặc bị đánh chìm sau Thế Chiến I,[A 11] nên từ này không còn cần thiết. Dù sao, những thiết giáp hạm trong Thế Chiến II đôi khi vẫn được gọi là những dreadnought.
Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012
Hoạt Động Của Dreadnought
[sửa] Siêu-dreadnought
Trong vòng năm năm sau khi chiếc Dreadnought được đưa vào hoạt động, một thế hệ mới của những chiếc "siêu-dreadnought" mạnh mẽ hơn được chế tạo. Sự xuất hiện của siêu-dreadnought thường được gắn liền với lớp Orion của Anh, và điều khiến cho chúng được gọi là “siêu” chính là bước nhảy về tải trọng thêm 2.000 tấn, sử dụng cỡ pháo lớn hơn BL 343 mm (13,5 inch) và việc bố trí toàn bộ dàn pháo chính trên trục dọc giữa tàu. Orion đi vào hoạt động chỉ sau Dreadnought 4 năm, nhưng tải trọng đã tăng thêm 25%, còn uy lực pháo bắn qua mạn đã mạnh gấp đôi.[128]Các siêu-dreadnought của Anh được các nước khác tiếp bước. Lớp New York của Hải quân Mỹ được đặt lườn vào năm 1911 và mang pháo 356 mm (14 inch) nhằm đáp trả lại động thái của Anh, và cỡ nòng pháo này trở thành tiêu chuẩn. Tại Nhật Bản, hai chiếc siêu-dreadnought thuộc lớp Fuso được đặt lườn vào năm 1912, và được tiếp nối bởi hai chiếc Ise vào năm 1914; tất cả đều được trang bị mười hai pháo 356 mm (14 inch). Năm 1917, lớp Nagato được đặt hàng, đây là những chiếc dreadnought đầu tiên được trang bị pháo 406 mm (16 inch), làm cho chúng trở thành những tàu chiến mạnh nhất thế giới. Tất cả dần dần được chế tạo toàn bộ tại Nhật Bản thay cho việc phải nhập khẩu các linh kiện từ nước ngoài. Tại Pháp, lớp Courbet được tiếp nối bởi ba chiếc siêu-dreadnought thuộc lớp Bretagne mang cỡ pháo 340 mm (13,4 in); rồi thêm năm chiếc lớp Normandie nhưng bị hủy bỏ do việc Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra.[129]
Các siêu-dreadnought của Anh sau này, chủ yếu là lớp Queen Elizabeth, loại bỏ bớt một tháp pháo, dành chỗ và trọng lượng cho những nồi hơi đốt dầu lớn hơn. Kiểu pháo mới BL 381 mm (15 inch) có hỏa lực mạnh hơn bù lại việc mất một tháp pháo, và nó cũng có đai giáp dày hơn cũng như cải thiện việc bảo vệ dưới nước. Lớp tàu này có tốc độ thiết kế 46 km/h (25 knot), và được xem là những thiết giáp hạm nhanh đầu tiên.[130]
Điểm yếu trong thiết kế của siêu-dreadnought, vốn phân biệt chúng với những thiết kế sau Thế Chiến I, là sự phân bố vỏ giáp. Thiết kế của siêu-dreadnought nhấn mạnh đến việc bảo vệ tầm ngang cần thiết trong các trận chiến ở tầm ngắn. Những con tàu này có thể tiếp chiến với đối phương ở khoảng cách 18 km (20.000 yard), nhưng tỏ ra mong manh trước những quả đạn pháo bắn tới ở góc cao từ cự ly đó. Các thiết kế tiêu biểu sau chiến tranh thường dành lớp vỏ giáp sàn tàu dày 130-150 mm (5-6 inch) để khắc phục yếu điểm trên. Khái niệm về vùng miễn nhiễm trở thành một phần quan trọng trong thiết kế thiết giáp hạm. Việc thiếu sót một sự bảo vệ dưới nước cũng là một điểm yếu của những thiết kế trước Thế Chiến I vốn chỉ phát sinh khi mối đe dọa của ngư lôi trở thành hiện thực.[131]
Kiểu thiết giáp hạm “tiêu chuẩn” của Hải quân Hoa Kỳ, bắt đầu với lớp Nevada, được thiết kế với những tính toán để đối đầu ở tầm xa và chịu đựng những quả đạn pháo bắn tới ở khoảng cách này, được đặt lườn lần đầu tiên vào năm 1912, bốn năm trước khi trận Jutland có thể dạy được điều gì cho hải quân các nước Châu Âu về mối nguy hiểm của tác chiến ở tầm xa. Những đặc tính quan trọng của kiểu thiết giáp hạm “tiêu chuẩn” là nguyên tắc “Tất cả hoặc không có gì” của vỏ giáp cùng việc cấu trúc kiểu “bè”, một triết lý mà theo đó chỉ những phần của con tàu đáng được bảo vệ mới đáng được bọc giáp, và cần có đủ độ nổi dự trữ chứa trong một "bè" bọc thép để có thể giữ nổi cho toàn thể con tàu trong trường hợp phần mũi hoặc đuôi tàu không bọc thép có thể bị bắn thủng hoàn toàn và ngập nước. Thiết kế này chỉ được chứng minh trong chiến đấu ở trận Hải chiến Guadalcanal trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, khi một cú bẻ lái cơ động không đúng lúc đã khiến cho USS South Dakota hiện ra rõ ràng trước các họng pháo Nhật Bản. Mặc dù bị bắn trúng 26 phát pháo hạng nặng, “bè bọc thép” của nó đã vô hại và nó tiếp tục nổi và tiếp tục hoạt động sau khi kết thúc trận đánh.[132]
Japan Và Dreadnoght
[sửa] Nhật Bản
Sau chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905, người Nhật bắt đầu quan tâm đến khả năng xảy ra một cuộc xung đột với Hoa Kỳ. Nhà lý luận Sato Tetsutaro đã phát triển một đường lối cho rằng Nhật Bản phải có một hạm đội chiến trận với kích cỡ ít nhất bằng 70% so với của Hoa Kỳ. Có như vậy, Nhật Bản mới có thể chiến thắng trong hai trận chiến quyết định, trận thứ nhất vào đầu cuộc chiến chống lại Hạm đội Thái Bình Dương, và trận thứ hai chống lại Hạm đội Đại Tây Dương vốn sẽ không tránh khỏi được gửi đến tăng cường.[105]Ưu tiên ban đầu của Nhật Bản là tái trang bị những chiếc tiền-dreadnought mà họ đã chiếm được của Nga và hoàn tất Satsuma và Aki. Lớp Satsuma thậm chí còn được thiết kế trước Dreadnought, nhưng sự thiếu hụt tài chính do ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh Nga-Nhật đã trì hoãn việc hoàn tất cũng như khiến nó phải mang một dàn pháo chính hỗn hợp, nên nó được gọi là một “bán-dreadnought”. Chúng được tiếp nối bởi một kiểu Aki được cải tiến: những chiếc Kawachi và Settsu. Hai chiếc này được đặt lườn vào năm 1909 và hoàn tất vào năm 1912, được trang bị mười hai pháo 305 mm (12 inch), nhưng chúng lại là hai kiểu pháo khác nhau với hai chiều dài nòng pháo riêng biệt, khiến cho chúng gặp khó khăn trong việc kiểm soát hỏa lực ở tầm xa.[106]
Hoa Kỳ và Dreadnought
[sửa] Hoa Kỳ
Lớp South Carolina của Hoa Kỳ là những tàu chiến “toàn súng lớn” đầu tiên được hoàn tất bởi một trong những đối thủ của Anh Quốc. Kế hoạch cho kiểu thiết giáp hạm mới này đã được bắt đầu trước khi Dreadnought được hạ thủy. Trong khi có những suy đoán là thiết kế của Hải quân Mỹ bị ảnh hưởng bởi những mối quan hệ không chính thức với các sĩ quan Hải quân Hoàng gia đồng tình,[98] các tàu chiến Mỹ lại rất khác biệt.Quốc hội Mỹ cho phép Hải quân đóng hai thiết giáp hạm mới, nhưng chỉ với tải trọng 16.000 tấn hay nhỏ hơn. Kết quả là lớp South Carolina được chế tạo với những tính năng nhỏ hơn nhiều so với Dreadnought. Để sử dụng tốt nhất trọng lượng dành cho vũ khí, tất cả tám khẩu pháo 305 mm (12 inch) đều được bố trí dọc theo trục giữa, trên các vị trí bắn thượng tầng trước và sau. Cách sắp xếp này cho phép một số lượng pháo bắn qua mạn tàu tương đương với Dreadnought cho dù có tổng số pháo trang bị ít hơn; và đây là giải pháp bố trí vũ khí hiệu quả nhất, là điềm báo trước cho cấu hình tiêu chuẩn trên các thế hệ thiết giáp hạm tương lai. Tiết kiệm chính về tải trọng so với Dreadnought là ở hệ thống động lực; South Carolina giữ lại kiểu động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc, nên chỉ đạt được tốc độ tối đa 34 km/h (18,5 knot) so với 41,6 km/h (22,5 knot) của Dreadnought.[99] Chính vì lý do này mà một số tác giả đã mô tả lớp Delaware sau này mới là những thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thực sự của Hoa Kỳ.[77][100] Chỉ vài năm sau khi được đưa vào hoạt động, lớp South Carolina đã không thể hoạt động trong đội hình chiến thuật chung với các dreadnought mới hơn do tốc độ chậm của chúng, và bị buộc phải hoạt động chung với các thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ hơn.[101][102]
Hai chiếc thuộc lớp Delaware là những thiết giáp hạm Mỹ đầu tiên bắt kịp về tốc độ so với các dreadnought Anh Quốc. Quyết định áp dụng kiểu tàu tải trọng 20.500 tấn trang bị 10 pháo thay vì 24.000 tấn và 12 pháo cho lớp tàu này bị phê phán, vì dàn pháo hạng hai bị ướt khi đi biển và mũi tàu thấp so với mực nước. Thiết kế 12 pháo thay thế cũng có nhiều bất lợi; hai khẩu pháo bổ sung và ụ pháo thấp có những “chi phí ngầm”, hai tháp pháo cánh được dự tính trang bị sẽ làm yếu đi sàn tàu bên trên, hầu như không thể được bảo vệ thỏa đáng chống lại các cuộc tấn công dưới nước, và buộc phải bố trí các hầm đạn quá gần hông lườn tàu.[77][103]
Hải quân Mỹ tiếp tục phát triển hạm đội chiến trận của họ, đặt lườn thêm hai chiếc mỗi năm trong hầu hết những năm tiếp theo cho đến năm 1920. Mỹ tiếp tục sử dụng động cơ chuyển động qua lại thay vì động cơ turbine cho đến lớp Nevada, đặt lườn vào năm 1912. Điều này một phần phản ảnh sự tiếp cận thận trọng trong chương trình chế tạo thiết giáp hạm, và một phần do sự lựa chọn ưu thế tầm xa hoạt động hơn là ưu thế tốc độ tối đa.[104]
Cuộc chạy đua vũ trang Anh-Đức trong hải quân
[sửa] Cuộc chạy đua vũ trang Anh-Đức
Phản ứng đầu tiên của Đức đối với Dreadnought là lớp Nassau, đặt lườn vào năm 1907. Tiếp theo là lớp Helgoland vào năm 1909. Cùng với hai chiếc tàu chiến-tuần dương, một kiểu tàu chiến mà Đức ít ngưỡng mộ hơn so với Fisher, nhưng lại được phép chế tạo vì được xem như một tàu tuần dương bọc thép thay vì một tàu chiến chủ lực; chúng cho phép Đức có tổng cộng mười tàu chiến chủ lực đã hoặc đang chế tạo cho đến năm 1909. Mặc dù các tàu chiến Anh hơi nhanh và mạnh hơn so với đối thủ Đức, nhưng một tỉ lệ lợi thế chỉ có 12:10 quả là đáng thất vọng vì thấp hơn nhiều so với tỉ lệ 2:1 mà Hải quân Hoàng gia muốn duy trì.[94]
Vào năm 1909, Quốc hội Anh chấp thuận chế tạo bốn tàu chiến chủ lực bổ sung, giữ hy vọng là Đức sẽ sẵn lòng thương lượng một hiệp ước giới hạn số lượng thiết giáp hạm. Nếu không tìm được giải pháp như vậy, sẽ có thêm bốn chiếc nữa được đặt lườn vào năm 1910. Ngay cả một giải pháp thỏa hiệp như vậy, nhưng đặt trong bối cảnh những cải cách xã hội đang diễn ra, dẫn tới một sự tăng thuế nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách do việc đóng tàu đã đủ để kích động một cuộc khủng hoảng hiến pháp cho Anh Quốc trong các năm 1909-1910. Vào năm 1910, kế hoạch đóng tám tàu của Anh được xúc tiến, bao gồm bốn chiếc thuộc lớp Orion, và được bổ sung bởi các tàu chiến-tuần dương được Australia và New Zealand đặt mua. Cùng khoảng thời gian đó, Đức chỉ đặt lườn ba chiếc, khiến Anh Quốc có một ưu thế 22:13. Quyết tâm của Anh thể hiện qua chương trình chế tạo đã khiến Đức phải tìm kiếm một sự kết thúc cho cuộc chạy đua vũ trang bằng con đường thương lượng. Dù mục tiêu mới của Bộ Hải quân Anh nhằm đạt 60% ưu thế đối với Đức cũng khá suýt soát với mục đích của Tirpitz cắt giảm ưu thế của Anh còn 50%, nhưng các cuộc đàm phán lại bị sa lầy trong câu hỏi liệu phạm vi của hiệp ước có bao gồm các tàu chiến-tuần dương của Khối Thịnh Vượng Chung hay không, cũng như là những vấn đề không liên quan đến hải quân, như việc Đức đòi hỏi phải xác nhận chủ quyền của họ trên vùng Alsace-Lorraine.[95]
Cuộc chạy đua vũ trang dreadnought gia tăng trở lại trong năm 1910 và 1911, khi Đức đặt lườn bốn tàu chiến chủ lực mỗi năm trong khi phía Anh là năm chiếc. Căng thẳng lên đến tột điểm vào lúc thông qua Đạo luật Hải quân của Đức vào năm 1912. Luật này nêu rõ việc xây dựng một hạm đội Đế quốc Đức bao gồm 33 thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương, vượt trội hơn Hải quân Hoàng gia tại vùng biển nhà. Tình hình thêm tệ hại cho người Anh, khi Hải quân Đế quốc Áo-Hung bắt đầu chế tạo bốn thiết giáp hạm, còn Ý đã có bốn và đang chế tạo thêm hai. Những nguy cơ này khiến Hải quân Hoàng gia không thể tiếp tục đảm bảo hoàn toàn cho những lợi ích sống còn của Đế quốc Anh. Anh Quốc đối mặt với sự lựa chọn hoặc phải chế tạo thêm nhiều thiết giáp hạm, hoặc rút lui khỏi Địa Trung Hải, hoặc đi tìm một liên minh quân sự với Pháp. Đóng thêm tàu là một sự tốn kém không thể chấp nhận được vào thời điểm mà ngân sách dành cho phúc lợi xã hội đang được đòi hỏi. Rút lui khỏi Địa Trung Hải có nghĩa là một mất mát lớn về ảnh hưởng, làm yếu đi chính sách ngoại giao của Anh tại khu vực này và làm lung lay sự ổn định của Đế chế Anh. Lựa chọn duy nhất khả thi, cũng là giải pháp mà Bộ trưởng Hải quân Winston Churchill đề nghị, là phá vỡ truyền thống về chính sách của quá khứ để có một sự dàn xếp về quân sự với Pháp. Theo đó, Pháp sẽ đảm nhận trách nhiệm ngăn chặn Ý và Áo-Hung tại Địa Trung Hải, đổi lấy việc Anh Quốc sẽ đảm bảo an ninh cho bờ biển phía Bắc của Pháp. Cho dù có một số phản đối của các chính trị gia Anh, Hải quân Hoàng gia bắt đầu tổ chức lại trên cơ sở này vào năm 1912.[96]
Mặc dù đã gây ra những hệ quả chiến lược quan trọng, Đạo luật Hải quân 1912 chỉ có ít ảnh hưởng lên tương quan giữa các lực lượng thiết giáp hạm. Anh Quốc đã đáp trả bằng cách đặt lườn thêm mười chiếc siêu-dreadnought mới trong các tài khóa 1912 và 1913, những chiếc thuộc lớp Queen Elizabeth và Revenge với những cải tiến lớn về vũ khí, tốc độ và sự bảo vệ; trong khi Đức chỉ đặt lườn năm chiếc do phải tập trung các nguồn lực cho lục quân.[97]
Việc chế tạo dreadnought giáp dày
Vỏ giáp
Hầu hết trọng lượng rẽ nước của một chiếc dreadnought là do các tấm thép của lớp vỏ giáp tạo ra. Các nhà thiết kế dành nhiều thời gian và nỗ lực để cung cấp sự bảo vệ tốt nhất có thể cho con tàu của họ chống lại nhiều loại vũ khí khác nhau. Tuy nhiên, không thể dành quá nhiều tải trọng cho việc bảo vệ mà không tính đến tốc độ, hỏa lực hay khả năng đi biển.[62]
Những chiếc dreadnought đầu tiên nhất được thiết kế để tham gia những trận chiến đối đầu các thiết giáp hạm khác ở khoảng cách cho đến 9 km (10.000 yard). Trong một cuộc đối đầu như vậy, các quả đạn pháo sẽ bay theo một đường đạn tương đối phẳng, và sẽ trúng ngay hay vào khoảng mực nước để gây hư hại những phần thiết yếu của con tàu. Vì lý do này, vỏ giáp của những chiếc dreadnought đầu tiên tập trung vào một đai dày chung quanh mực nước; và nó dày 280 mm (11 inch) trên chiếc Dreadnought. Các hầm chứa than cho con tàu được bố trí đằng sau đai giáp này để tăng cường hơn nữa sự bảo vệ các khoang động cơ.[64] Trong một trận chiến kiểu này, có ít nguy cơ hư hại gián tiếp cho những bộ phận thiết yếu của con tàu. Một quả đạn pháo bắn trúng phía trên đai giáp và phát nổ sẽ tung mảnh đạn bay ra khắp mọi hướng. Những mảnh đạn này nguy hiểm, nhưng có thể được ngăn chặn bởi lớp vỏ giáp mỏng hơn nhiều so với lớp cần có để ngăn chặn một quả đạn xuyên thép chưa phát nổ. Để bảo vệ những phần bên trong của con tàu khỏi mảnh đạn của những đạn pháo phát nổ trên cấu trúc thượng tầng, một lớp vỏ thép mỏng hơn được ghép cho các sàn tàu.[64]
Trong khi sự bảo vệ dày nhất được dành cho thành trì trung tâm của mọi thiết giáp hạm, hải quân một số nước cũng kéo dài đai giáp và vỏ giáp sàn tàu mỏng hơn để che phủ hai đầu con tàu, hay mở rộng một lớp đai giáp mỏng lên phía trên bên ngoài của lườn tàu. Kiểu vỏ giáp “vuốt nhọn” này được các cường quốc hải quân tại Châu Âu: Anh, Đức và Pháp áp dụng. Cách sắp xếp này cho phép có đôi chút vỏ giáp cho một phần lớn của con tàu; và điều này hữu ích đối với những dreadnought thế hệ đầu tiên khi mà đạn pháo gây nổ vẫn còn được xem là một mối đe dọa đáng kể. Tuy nhiên, đai giáp có xu hướng trở nên quá ngắn, chỉ bảo vệ một dải mỏng bên trên mực nước; một số hải quân các nước nhận thấy khi những dreadnought của họ chất đầy tải, đai giáp bị chìm hoàn toàn dưới nước.[65] Sơ đồ bảo vệ ”tất cả hoặc không có gì” là giải pháp thay thế được Hải quân Mỹ phát triển. Đai giáp sẽ cao và dày, nhưng không có sự bảo vệ bên hông nào được cung cấp cho hai đầu con tàu hoặc các sàn tàu bên trên. Lớp vỏ giáp sàn tàu cũng được làm dày hơn. Sơ đồ “tất cả hoặc không có gì” đem đến sự bảo vệ hiệu quả hơn cho những cuộc đối đầu ở tầm rất xa giữa các hạm đội chiến trận và được áp dụng rộng rãi bên ngoài Hải quân Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.[66]
Trong quá trình phát triển của dreadnought, sơ đồ vỏ giáp cũng thay đổi phản ảnh mối nguy cơ lớn hơn của đạn pháo bắn đến từ tầm xa, và mối đe dọa gia tăng của bom xuyên thép ném từ máy bay. Trong các thiết kế sau này, lớp vỏ giáp thép cho sàn tàu có độ dày lớn hơn;[67] Yamato mang đai giáp chính dày 406 mm (16 inch), nhưng vỏ giáp sàn tàu dày 228 mm (9 inch).[68]
Tiến triển lớn nhất trong hệ thống bảo vệ dreadnought là việc phát triển các bầu và đai chống ngư lôi, cả hai đều nhằm bảo vệ chống lại sự hư hại dưới nước do thủy lôi và ngư lôi gây ra. Mục đích của việc bảo vệ dưới nước là hấp thu xung lực của một quả thủy lôi hay một quả ngư lôi kích nổ, không cho chúng tác động tới lớp trong cùng của lườn tàu kín nước. Đó là một vách ngăn bên trong dọc theo hông của lườn tàu, nói chung được bọc giáp nhẹ để ngăn chặn mảnh đạn, cách biệt với lớp vỏ ngoài bởi một hay nhiều ngăn. Những ngăn ở giữa có thể để trống hoặc được đổ đầy than, nước hay dầu đốt.[70]
Với cùng một thể tích máy móc, động cơ turbine cung cấp nhiều sức mạnh hơn động cơ chuyển động qua lại.[73][74] Điều này, cộng với sự đảm bảo của nhà phát minh động cơ mới là Charles Parsons, đã thuyết phục được Hải quân Anh sử dụng turbine trên Dreadnought.[74] Có quan điểm cho rằng động cơ turbine còn có thêm lợi điểm sạch hơn và tin cậy hơn so với động cơ chuyển động qua lại.[75] Tuy nhiên, vào thời điểm 1905, những thiết kế mới của động cơ chuyển động qua lại sẵn có đã sạch hơn và tin cậy hơn so với các kiểu trước đó.[73]
Động cơ turbine không phải là không có khuyết điểm. Khi di chuyển ở tốc độ đường trường chậm hơn nhiều so với tốc độ tối đa, động cơ turbine có hiệu quả nhiên liệu thấp hơn đáng kể so với động cơ chuyển động qua lại. Điều này đặc biệt quan trọng đối với hải quân những nước vốn cần có tầm hoạt động rộng xa ở tốc độ đường trường; và nhất là đối với Hải quân Mỹ, vốn đã vạch kế hoạch băng ngang suốt Thái Bình Dương để đối đầu với Nhật Bản tại Philippines trong trường hợp có chiến tranh.[76] Đây chính là lý do đưa đến quyết định của Mỹ từ bỏ động cơ turbine sau khi đã trang bị chúng cho chiếc North Dakota (đặt hàng năm 1907, hạ thủy năm 1908);[77] mãi cho đến chiếc Nevada (đặt hàng năm 1911, hạ thủy năm 1914) thì động cơ turbine mới sống lại trên những chiếc dreadnought của Mỹ.
Bất lợi của kiểu động cơ turbine cuối cùng cũng được khắc phục bằng cách áp dụng rộng rãi turbine hộp số, khi hộp số được dùng làm giảm tốc độ xoay của chân vịt và do đó làm tăng hiệu quả. Tuy nhiên, giải pháp này đòi hỏi độ chính xác kỹ thuật của hộp số, và vì vậy khó áp dụng.[78]
Một giải pháp thay thế là động cơ turbo-điện khi các turbin hơi nước dẫn động máy phát điện, và điện năng được dùng để quay các chân vịt. Giải pháp này được Hải quân Mỹ đặc biệt ưa chuộng, khi áp dụng cho mọi dreadnought từ cuối năm 1915 đến năm 1922. Ưu điểm của phương pháp này là chi phí thấp, khả năng phân bố các ngăn thật sát nhau dưới mực nước, và cơ động chạy lui tốt. Những khuyết điểm bao gồm máy móc nặng nề và mong manh trước những hư hại trong chiến đấu. Đặc biệt là ảnh hưởng của ngập nước đối với hệ thống điện.[A 8]
Động cơ turbine không bao giờ được thay thế trên thiết kế của thiết giáp hạm. Động cơ diesel từng được hải quân nhiều nước xem xét, vì chúng có tầm hoạt động xa và kích thước động cơ chiếm ít hơn chiều dài của con tàu. Tuy nhiên, chúng cũng nặng hơn, chiếm chỗ nhiều bề rộng hơn, công suất yếu hơn, và được xem là ít tin cậy.[79][80]
Động cơ đốt dầu mang lại những lợi ích mà cả các nhà thiết kế hải quân lẫn sĩ quan hạm đội đều ưa chuộng. Nó tạo ra ít khói, khiến con tàu ít bị phát hiện. Nó có thể nạp tự động vào lò đốt, không cần đến một đội ngũ các thợ đốt lò để nạp than thủ công. Dầu đốt có nhiệt dung khoảng gấp đôi than. Điều này có nghĩa là bản thân nồi hơi có thể nhỏ hơn; và với cùng một thể tích nhiên liệu, một con tàu đốt dầu có tầm hoạt động xa hơn nhiều.[81]
Với những lợi ích đó, ngay từ năm 1901, Jackie Fisher đã rất quan tâm đến dầu đốt.[82] Cũng có những vấn đề kỹ thuật liên quan đến việc đốt dầu, do sự phân bố khác nhau trọng lượng của dầu đốt so với than,[81] và vấn đề bơm dầu có độ nhớt cao.[83] Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất của việc sử dụng dầu đốt cho hạm đội chiến trận chính là mọi cường quốc hải quân, ngoại trừ Hoa Kỳ, đều phải nhập khẩu dầu. Việc này khiến cho nhiều nước áp dụng 'lò đốt kép' sử dụng than phun dầu; tàu chiến Anh đã được trang bị như vậy, kể cả thiết giáp hạm, có thể sử dụng một mình dầu cho đến 60% công suất.[84]
Hoa Kỳ là nước sản xuất dầu chính yếu, và họ là nước đầu tiên toàn tâm toàn ý sử dụng dầu đốt. Năm 1910, Hải quân Mỹ đã quyết định đặt hàng chế tạo nồi hơi đốt dầu cho thiết giáp hạm lớp Nevada vào năm 1911.[85] Anh Quốc không bị tụt hậu lâu, đã quyết định vào năm 1912 sử dụng dầu đốt cho lớp Queen Elizabeth của mình;[84] và thời gian thiết kế lẫn chế tạo của Anh ngắn hơn khiến cho Queen Elizabeth được đưa vào hoạt động còn trước cả lớp Nevada. Anh Quốc có kế hoạch quay trở lại đốt nồi hơi hỗn hợp đối với lớp lớp Revenge tiếp theo, với cái giá phải giảm đi ít tốc độ; nhưng khi quay lại chức vụ Bộ trưởng Hải quân vào năm 1914, Fisher đã khẳng định mọi nồi hơi đều phải đốt dầu.[86] Tất cả các cường quốc hải quân khác đều giữ lại lò đốt hỗn hợp than và dầu cho đến khi kết thúc Thế Chiến I.[87]
Cuộc đua thiết giáp hạm lại nhanh chóng tăng tốc một lần nữa, đặt một gánh nặng khổng lồ về tài chính lên các chính phủ liên quan. Những chiếc dreadnought đầu tiên không quá đắt hơn so với những chiếc tiền-dreadnought cuối cùng, nhưng chi phí cho mỗi con tàu tiếp tục gia tăng sau đó.[A 9] Cho dù chi phí chế tạo cao, song các thiết giáp hạm hiện đại là một thành phần cốt yếu của sức mạnh hải quân. Mỗi thiết giáp hạm là một dấu hiệu của sức mạnh và uy tín của quốc gia, theo một cách tương tự như vũ khí hạt nhân ngày nay.[91] Đức, Pháp, Nga, Ý, Nhật Bản và Áo, tất cả đều bắt đầu những chương trình chế tạo dreadnought, còn những thế lực hải quân hạng hai bao gồm Đế quốc Ottoman, Argentina, Brasil và Chile đưa vào hoạt động những dreadnought được chế tạo bởi các xưởng đóng tàu Anh và Mỹ.[92]
[sửa] Thành trì trung tâm
Phần lớn nhất của vỏ giáp trên một chiếc dreadnought tập trung chung quanh một “thành trì trung tâm”. Đây là một cái hộp với bốn vách bọc thép và nóc cũng bọc thép chung quanh những bộ phận quan trọng nhất của con tàu. Mặt hông của thành trì này là đai giáp của con tàu, bắt đầu từ lườn tàu ngay trước tháp pháo phía trước và kéo dài cho đến phía sau tháp pháo phía sau. Hai đầu của thành trì này là hai vách ngăn bọc thép trước và sau, nối liền giữa hai đầu của đai giáp. Nóc của thành trì và một lớp sàn tàu bọc thép. Bên trong nó là các nồi hơi, động cơ và hầm đạn cho các tháp pháo chính. Một phát bắn trúng vào một trong số các bộ phận này có thể làm hỏng hoặc thậm chí phá hủy con tàu. Đáy của cái hộp này chính là đáy của lườn tàu và không được bọc thép.[63]Những chiếc dreadnought đầu tiên nhất được thiết kế để tham gia những trận chiến đối đầu các thiết giáp hạm khác ở khoảng cách cho đến 9 km (10.000 yard). Trong một cuộc đối đầu như vậy, các quả đạn pháo sẽ bay theo một đường đạn tương đối phẳng, và sẽ trúng ngay hay vào khoảng mực nước để gây hư hại những phần thiết yếu của con tàu. Vì lý do này, vỏ giáp của những chiếc dreadnought đầu tiên tập trung vào một đai dày chung quanh mực nước; và nó dày 280 mm (11 inch) trên chiếc Dreadnought. Các hầm chứa than cho con tàu được bố trí đằng sau đai giáp này để tăng cường hơn nữa sự bảo vệ các khoang động cơ.[64] Trong một trận chiến kiểu này, có ít nguy cơ hư hại gián tiếp cho những bộ phận thiết yếu của con tàu. Một quả đạn pháo bắn trúng phía trên đai giáp và phát nổ sẽ tung mảnh đạn bay ra khắp mọi hướng. Những mảnh đạn này nguy hiểm, nhưng có thể được ngăn chặn bởi lớp vỏ giáp mỏng hơn nhiều so với lớp cần có để ngăn chặn một quả đạn xuyên thép chưa phát nổ. Để bảo vệ những phần bên trong của con tàu khỏi mảnh đạn của những đạn pháo phát nổ trên cấu trúc thượng tầng, một lớp vỏ thép mỏng hơn được ghép cho các sàn tàu.[64]
Trong khi sự bảo vệ dày nhất được dành cho thành trì trung tâm của mọi thiết giáp hạm, hải quân một số nước cũng kéo dài đai giáp và vỏ giáp sàn tàu mỏng hơn để che phủ hai đầu con tàu, hay mở rộng một lớp đai giáp mỏng lên phía trên bên ngoài của lườn tàu. Kiểu vỏ giáp “vuốt nhọn” này được các cường quốc hải quân tại Châu Âu: Anh, Đức và Pháp áp dụng. Cách sắp xếp này cho phép có đôi chút vỏ giáp cho một phần lớn của con tàu; và điều này hữu ích đối với những dreadnought thế hệ đầu tiên khi mà đạn pháo gây nổ vẫn còn được xem là một mối đe dọa đáng kể. Tuy nhiên, đai giáp có xu hướng trở nên quá ngắn, chỉ bảo vệ một dải mỏng bên trên mực nước; một số hải quân các nước nhận thấy khi những dreadnought của họ chất đầy tải, đai giáp bị chìm hoàn toàn dưới nước.[65] Sơ đồ bảo vệ ”tất cả hoặc không có gì” là giải pháp thay thế được Hải quân Mỹ phát triển. Đai giáp sẽ cao và dày, nhưng không có sự bảo vệ bên hông nào được cung cấp cho hai đầu con tàu hoặc các sàn tàu bên trên. Lớp vỏ giáp sàn tàu cũng được làm dày hơn. Sơ đồ “tất cả hoặc không có gì” đem đến sự bảo vệ hiệu quả hơn cho những cuộc đối đầu ở tầm rất xa giữa các hạm đội chiến trận và được áp dụng rộng rãi bên ngoài Hải quân Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.[66]
Trong quá trình phát triển của dreadnought, sơ đồ vỏ giáp cũng thay đổi phản ảnh mối nguy cơ lớn hơn của đạn pháo bắn đến từ tầm xa, và mối đe dọa gia tăng của bom xuyên thép ném từ máy bay. Trong các thiết kế sau này, lớp vỏ giáp thép cho sàn tàu có độ dày lớn hơn;[67] Yamato mang đai giáp chính dày 406 mm (16 inch), nhưng vỏ giáp sàn tàu dày 228 mm (9 inch).[68]
[sửa] Việc bảo vệ dưới nước và sự phân ngăn
Yếu tố cuối cùng của sơ đồ bảo vệ những chiếc dreadnought thế hệ đầu tiên là những ngăn kín nước riêng biệt của lườn tàu bên dưới mực nước. Nếu lườn tàu bị thủng bởi bất cứ nguyên nhân nào, đạn pháo, thủy lôi, ngư lôi hay do va chạm; trên lý thuyết chỉ có một khu vực bị ngập nước và con tàu có thể sống sót. Để làm cho biện pháp phòng ngừa này thêm hiệu quả, nhiều chiếc dreadnought thậm chí không trang bị cửa thông giữa các ngăn khác nhau dưới mực nước, để ngay cả một lổ thủng bất ngờ dưới nước cũng không thể làm đắm con tàu. Tuy nhiên, vẫn có một số tình huống mà việc ngập nước lan rộng giữa các ngăn dưới nước.[69]Tiến triển lớn nhất trong hệ thống bảo vệ dreadnought là việc phát triển các bầu và đai chống ngư lôi, cả hai đều nhằm bảo vệ chống lại sự hư hại dưới nước do thủy lôi và ngư lôi gây ra. Mục đích của việc bảo vệ dưới nước là hấp thu xung lực của một quả thủy lôi hay một quả ngư lôi kích nổ, không cho chúng tác động tới lớp trong cùng của lườn tàu kín nước. Đó là một vách ngăn bên trong dọc theo hông của lườn tàu, nói chung được bọc giáp nhẹ để ngăn chặn mảnh đạn, cách biệt với lớp vỏ ngoài bởi một hay nhiều ngăn. Những ngăn ở giữa có thể để trống hoặc được đổ đầy than, nước hay dầu đốt.[70]
[sửa] Động lực
Dreadnought được vận hành nhờ từ hai đến bốn chân vịt cánh quạt.[71] Bản thân Dreadnought cùng các thiết giáp hạm dreadnought của Anh có các trục chân vịt được dẫn động bằng động cơ turbine hơi nước. Tuy nhiên, thế hệ dreadnought đầu tiên mà các nước khác chế tạo vẫn sử dụng kiểu động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc chậm hơn, vốn là tiêu chuẩn cho các thiết giáp hạm tiền-dreadnought.[72]Với cùng một thể tích máy móc, động cơ turbine cung cấp nhiều sức mạnh hơn động cơ chuyển động qua lại.[73][74] Điều này, cộng với sự đảm bảo của nhà phát minh động cơ mới là Charles Parsons, đã thuyết phục được Hải quân Anh sử dụng turbine trên Dreadnought.[74] Có quan điểm cho rằng động cơ turbine còn có thêm lợi điểm sạch hơn và tin cậy hơn so với động cơ chuyển động qua lại.[75] Tuy nhiên, vào thời điểm 1905, những thiết kế mới của động cơ chuyển động qua lại sẵn có đã sạch hơn và tin cậy hơn so với các kiểu trước đó.[73]
Động cơ turbine không phải là không có khuyết điểm. Khi di chuyển ở tốc độ đường trường chậm hơn nhiều so với tốc độ tối đa, động cơ turbine có hiệu quả nhiên liệu thấp hơn đáng kể so với động cơ chuyển động qua lại. Điều này đặc biệt quan trọng đối với hải quân những nước vốn cần có tầm hoạt động rộng xa ở tốc độ đường trường; và nhất là đối với Hải quân Mỹ, vốn đã vạch kế hoạch băng ngang suốt Thái Bình Dương để đối đầu với Nhật Bản tại Philippines trong trường hợp có chiến tranh.[76] Đây chính là lý do đưa đến quyết định của Mỹ từ bỏ động cơ turbine sau khi đã trang bị chúng cho chiếc North Dakota (đặt hàng năm 1907, hạ thủy năm 1908);[77] mãi cho đến chiếc Nevada (đặt hàng năm 1911, hạ thủy năm 1914) thì động cơ turbine mới sống lại trên những chiếc dreadnought của Mỹ.
Bất lợi của kiểu động cơ turbine cuối cùng cũng được khắc phục bằng cách áp dụng rộng rãi turbine hộp số, khi hộp số được dùng làm giảm tốc độ xoay của chân vịt và do đó làm tăng hiệu quả. Tuy nhiên, giải pháp này đòi hỏi độ chính xác kỹ thuật của hộp số, và vì vậy khó áp dụng.[78]
Một giải pháp thay thế là động cơ turbo-điện khi các turbin hơi nước dẫn động máy phát điện, và điện năng được dùng để quay các chân vịt. Giải pháp này được Hải quân Mỹ đặc biệt ưa chuộng, khi áp dụng cho mọi dreadnought từ cuối năm 1915 đến năm 1922. Ưu điểm của phương pháp này là chi phí thấp, khả năng phân bố các ngăn thật sát nhau dưới mực nước, và cơ động chạy lui tốt. Những khuyết điểm bao gồm máy móc nặng nề và mong manh trước những hư hại trong chiến đấu. Đặc biệt là ảnh hưởng của ngập nước đối với hệ thống điện.[A 8]
Động cơ turbine không bao giờ được thay thế trên thiết kế của thiết giáp hạm. Động cơ diesel từng được hải quân nhiều nước xem xét, vì chúng có tầm hoạt động xa và kích thước động cơ chiếm ít hơn chiều dài của con tàu. Tuy nhiên, chúng cũng nặng hơn, chiếm chỗ nhiều bề rộng hơn, công suất yếu hơn, và được xem là ít tin cậy.[79][80]
[sửa] Nhiên liệu
Thế hệ dreadnought đầu tiên sử dụng than để đốt các nồi hơi cung cấp hơi nước cho các turbine. Than đã bắt đầu được sử dụng ngay từ những tàu chiến hơi nước đầu tiên, nhưng có nhiều bất lợi. Chất than lên hầm chứa trên tàu, rồi để nạp chúng vào lò đốt là một công việc tốn sức lực. Các nồi hơi dễ bị nghẹt vì muội than. Than tạo ra lớp khói đen kịt bộc lộ vị trí của hạm đội. Hơn nữa, than rất cồng kềnh và có hiệu suất nhiệt tương đối thấp. Dù sao, than có tính trơ khá và có thể được sử dụng như một phần trong sơ đồ bảo vệ con tàu.[81]Động cơ đốt dầu mang lại những lợi ích mà cả các nhà thiết kế hải quân lẫn sĩ quan hạm đội đều ưa chuộng. Nó tạo ra ít khói, khiến con tàu ít bị phát hiện. Nó có thể nạp tự động vào lò đốt, không cần đến một đội ngũ các thợ đốt lò để nạp than thủ công. Dầu đốt có nhiệt dung khoảng gấp đôi than. Điều này có nghĩa là bản thân nồi hơi có thể nhỏ hơn; và với cùng một thể tích nhiên liệu, một con tàu đốt dầu có tầm hoạt động xa hơn nhiều.[81]
Với những lợi ích đó, ngay từ năm 1901, Jackie Fisher đã rất quan tâm đến dầu đốt.[82] Cũng có những vấn đề kỹ thuật liên quan đến việc đốt dầu, do sự phân bố khác nhau trọng lượng của dầu đốt so với than,[81] và vấn đề bơm dầu có độ nhớt cao.[83] Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất của việc sử dụng dầu đốt cho hạm đội chiến trận chính là mọi cường quốc hải quân, ngoại trừ Hoa Kỳ, đều phải nhập khẩu dầu. Việc này khiến cho nhiều nước áp dụng 'lò đốt kép' sử dụng than phun dầu; tàu chiến Anh đã được trang bị như vậy, kể cả thiết giáp hạm, có thể sử dụng một mình dầu cho đến 60% công suất.[84]
Hoa Kỳ là nước sản xuất dầu chính yếu, và họ là nước đầu tiên toàn tâm toàn ý sử dụng dầu đốt. Năm 1910, Hải quân Mỹ đã quyết định đặt hàng chế tạo nồi hơi đốt dầu cho thiết giáp hạm lớp Nevada vào năm 1911.[85] Anh Quốc không bị tụt hậu lâu, đã quyết định vào năm 1912 sử dụng dầu đốt cho lớp Queen Elizabeth của mình;[84] và thời gian thiết kế lẫn chế tạo của Anh ngắn hơn khiến cho Queen Elizabeth được đưa vào hoạt động còn trước cả lớp Nevada. Anh Quốc có kế hoạch quay trở lại đốt nồi hơi hỗn hợp đối với lớp lớp Revenge tiếp theo, với cái giá phải giảm đi ít tốc độ; nhưng khi quay lại chức vụ Bộ trưởng Hải quân vào năm 1914, Fisher đã khẳng định mọi nồi hơi đều phải đốt dầu.[86] Tất cả các cường quốc hải quân khác đều giữ lại lò đốt hỗn hợp than và dầu cho đến khi kết thúc Thế Chiến I.[87]
Việc chế tạo dreadnought
Phát triển dreadnought trở thành một động thái chạy đua vũ trang thiết giáp hạm toàn cầu vốn đã bắt đầu từ những năm 1890. Hải quân Hoàng gia Anh đang có được ưu thế đáng kể về số lượng thiết giáp hạm tiền-dreadnought, nhưng chỉ dẫn trước một dreadnought duy nhất.[88] Tình hình này, cùng với việc hạ thủy chiếc HMS Dreadnought, làm nảy sinh các ý kiến phê phán rằng Anh Quốc đã ném bỏ đi một lợi thế chiến lược.[89] Cùng lúc đó, đa số các đối thủ hải quân của Anh đang dự định, hay thậm chí đang chế tạo, tàu chiến có cỡ pháo lớn đồng nhất. Cả hải quân Nhật lẫn Hoa Kỳ đã đặt hàng những chiếc "toàn súng lớn" vào năm 1904-1905, với các lớp Satsuma (Nhật Bản) và South Carolina (Hoa Kỳ). Ngay từ những năm 1890, Hoàng đế Đức Wilhelm II từng chủ trương một tàu chiến nhanh chỉ trang bị pháo hạng nặng. Bằng cách đi trước trong việc chế tạo dreadnought, Anh Quốc muốn đảm bảo trên mặt biển của họ tiếp tục được duy trì.[90]Cuộc đua thiết giáp hạm lại nhanh chóng tăng tốc một lần nữa, đặt một gánh nặng khổng lồ về tài chính lên các chính phủ liên quan. Những chiếc dreadnought đầu tiên không quá đắt hơn so với những chiếc tiền-dreadnought cuối cùng, nhưng chi phí cho mỗi con tàu tiếp tục gia tăng sau đó.[A 9] Cho dù chi phí chế tạo cao, song các thiết giáp hạm hiện đại là một thành phần cốt yếu của sức mạnh hải quân. Mỗi thiết giáp hạm là một dấu hiệu của sức mạnh và uy tín của quốc gia, theo một cách tương tự như vũ khí hạt nhân ngày nay.[91] Đức, Pháp, Nga, Ý, Nhật Bản và Áo, tất cả đều bắt đầu những chương trình chế tạo dreadnought, còn những thế lực hải quân hạng hai bao gồm Đế quốc Ottoman, Argentina, Brasil và Chile đưa vào hoạt động những dreadnought được chế tạo bởi các xưởng đóng tàu Anh và Mỹ.[92]
Thiết kế Dreadnought
[sửa] Thiết kế
Những nhà thiết kế cho dreadnought đã cố tìm cách thiết kế sao cho nó được bảo vệ, có tốc độ và hỏa lực càng nhiều càng tốt với kích cỡ và chi phí mang tính thực tế. Dấu hiệu xác nhận của một thiết giáp hạm dreadnought là giàn hỏa lực ‘toàn súng lớn’, nhưng cũng có một vỏ giáp nặng tập trung vào một đai dày ở ngang mực nước và một hay nhiều sàn tàu bọc thép. Thêm vào đó, giàn hỏa lực hạng hai, hệ thống kiểm soát hỏa lực, thiết bị chỉ huy, hệ thống bảo vệ chống lại ngư lôi cũng được nhồi nhét lên thân tàu.[34]Hậu quả không thể tránh khỏi của những đòi hỏi về tốc độ nhanh hơn nữa, hỏa lực mạnh và sự chịu đựng có nghĩa là tải trọng, và do đó là chi phí, của dreadnought có xu hướng gia tăng. Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 đặt ra một giới hạn 35.000 đối với tải trọng của các tàu chiến chủ lực. Trong những năm sau đó, một số thiết giáp hạm hiệp ước được đưa vào hoạt động có thiết kế bên trong giới hạn này. Quyết định của Nhật Bản rời khỏi Hiệp ước trong những năm 1930, rồi đến việc Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, cuối cùng đã khiến cho giới hạn này không còn thích hợp.[35]
[sửa] Vũ khí trang bị
Dreadnought mang một giàn hỏa lực chính gồm pháo hạng nặng có cỡ nòng đồng nhất; số lượng, kích cỡ và cách bố trí rất khác nhau giữa các thiết kế. Bản thân Dreadnought mang mười khẩu 305 mm (12 inch). Pháo 305 mm (12 inch) đã trở thành tiêu chuẩn cho hầu hết hải quân trên thế giới trong thời đại tiền-dreadnought và điều này được tiếp nối trong thế hệ đầu tiên của thiết giáp hạm dreadnought. Hải quân Đế quốc Đức là một ngoại lệ, họ tiếp tục sử dụng pháo 280 mm (11 inch) trên những chiếc dreadnought hàng đầu thuộc lớp Nassau.[36]Dreadnought cũng trang bị các vũ khí nhẹ hơn. Nhiều chiếc dreadnought đời đầu có một giàn hỏa lực hạng hai gồm các khẩu pháo rất nhẹ được thiết kế để đẩy lùi tàu phóng lôi đối phương. Tuy nhiên, cỡ nòng và trọng lượng của giàn hỏa lực hạng hai có xu hướng gia tăng, khi tầm xa của ngư lôi và sức chịu đựng của tàu khu trục được dự định mang chúng cũng gia tăng. Từ cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất trở đi, thiết giáp hạm còn được trang bị vũ khí phòng không, tiêu biểu là một số lượng lớn súng hạng nhẹ.[37]
Bản thân dreadnought cũng rất hay được trang bị ống phóng ngư lôi. Về lý thuyết, một hàng thiết giáp hạm được trang bị như vậy có thể tung ra một loạt ngư lôi hủy diệt nhằm vào hàng tàu chiến đối phương đang di chuyển một hướng đi song song. Song các ghi chép thực tế cho thấy ngư lôi phóng từ thiết giáp hạm ghi rất ít khi trúng mục tiêu, trong khi nguy cơ từ việc dự trữ ngư lôi có thể gây nổ nguy hiểm nếu bị hỏa lực đối phương bắn trúng.[38]
[sửa] Sự bố trí dàn pháo chính
Hiệu quả của các khẩu pháo phụ thuộc một phần vào cách sắp xếp các tháp pháo. Dreadnought và các thiết giáp hạm Anh chế tạo ngay sau nó mang 5 tháp pháo: 2 phía trước và 1 phía sau trên trục dọc con tàu, và 2 tháp pháo bên cánh cạnh cấu trúc thượng tầng. Điều này cho phép ba tháp pháo sẽ bắn hướng ra trước và bốn tháp pháo bắn qua mạn tàu. Các lớp dreadnought Nassau và Helgoland của Đức sử dụng một sơ đồ 'lục giác': 1 tháp pháo phía trước và phía sau cùng 4 tháp pháo bên cánh, có nghĩa là có nhiều pháo trang bị hơn, nhưng có cùng số pháo có thể bắn ra phía trước hay qua mạn tàu so với Dreadnought.[39]Những thiết kế khác của dreadnought thử nghiệm nhiều cách sắp xếp khác nhau. lớp Neptune của Anh xếp tầng các tháp pháo bên cánh, để cả 10 khẩu pháo có thể bắn qua mạn, một đặc tính cũng được lớp Kaiser của Đức áp dụng. Tuy nhiên, điều này có nguy cơ ảnh hưởng của phát súng nổ sẽ gây hư hại các bộ phận của con tàu nơi các khẩu pháo khai hỏa, và tạo áp lực nặng lên khung tàu.[40]
Nếu tháp pháo đều được bố trí toàn bộ trên trục dọc con tàu, áp lực lên khung tàu sẽ tương đối thấp. Cách bố trí này cho phép có thể bắn toàn bộ dàn pháo chính qua mạn tàu, cho dù sẽ ít hơn khi bắn hai đầu. Nó cũng có nghĩa là lườn tàu phải dài hơn, tạo một số thách thức cho các nhà thiết kế; một con tàu dài hơn cần dành nhiều trọng lượng hơn cho vỏ giáp để được bảo vệ tương xứng, và các hầm đạn phục vụ cho mỗi tháp pháo ảnh hưởng đến việc phân bố các nồi hơi và động cơ.[41] Vì những lý do đó, thiết giáp hạm HMS Agincourt (1913), mang một số lượng kỷ lục mười bốn khẩu 305 mm (12 inch) trên bảy tháp pháo bố trí dọc theo trục giữa, không được xem là một thành công.[42]
Một giải pháp bố trí bắn thượng tầng cuối cùng được áp dụng như là tiêu chuẩn. Giải pháp này bao gồm việc nâng cao một hoặc hai tháp pháo để chúng có thể bắn ngay bên trên trên một tháp pháo khác ngay phía trước hay phía sau nó. Hải quân Mỹ áp dụng kiểu này ngay trên những dreadnought đầu tiên của họ vào năm 1906, nhưng những nước khác không vội vã làm theo. Giống như những cách bố trí khác, nó vẫn có những thiếu sót. Thoạt tiên, có mối lo ngại về ảnh hưởng của sự nổ của các khẩu súng bên trên đối với tháp pháo thấp hơn; và các tháp pháo được nâng cao cũng kéo trọng tâm của tàu lên cao, có thể làm giảm độ ổn định của con tàu. Dù sao, cách bố trí này tận dụng tốt nhất hỏa lực có được từ một số lượng pháo cố định, và sau này được áp dụng rộng rãi.[40] Hải quân Mỹ sử dụng bắn thượng tầng cho lớp South Carolina, và cách bố trí này được Hải quân Hoàng gia áp dụng cho lớp Orion vào năm 1910. Đến thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ hai, cách bố trí bắn thượng tầng là tiêu chuẩn cho toàn bộ tàu chiến.
Vào thời kỳ đầu, mọi dreadnought đều có tháp pháo đôi: hai khẩu súng cho mỗi tháp pháo. Tuy nhiên, một giải pháp cho vấn đề bố trí tháp pháo là xếp ba hoặc thậm chí bốn pháo cho mỗi tháp pháo. Có ít tháp pháo hơn có nghĩa là con tàu ngắn hơn, hoặc dành nhiều chỗ hơn cho hệ thống động lực. Ở mặt khác, trong trường hợp một quả đạn pháo đối phương phá hủy một tháp pháo, một tỉ lệ lớn hơn của giàn hỏa lực chính bị loại khỏi vòng chiến đấu. Nguy cơ sóng kích nổ từ một nòng pháo ảnh hưởng đến những chiếc khác trên cùng tháp pháo cũng phần nào làm giảm tốc độ bắn của các khẩu pháo. Nước đầu tiên áp dụng tháp pháo ba nòng là Ý trên chiếc Dante Alighieri, nhanh chóng được tiếp nối bởi lớp Gangut của Nga,[43] lớp Tegetthoff của Áo-Hung, và lớp Nevada của Mỹ. Hải quân Hoàng gia không sử dụng tháp pháo ba nòng cho đến sau Thế Chiến I với lớp Nelson. Nhiều thiết kế sau đó còn sử dụng tháp pháo bốn nòng, bao gồm lớp King George V của Anh và lớp Richelieu của Pháp.
[sửa] Sức mạnh và cỡ nòng của dàn pháo chính
Thay vì cố gắng chất nhiều pháo trên một con tàu, có thể gia tăng sức mạnh cho mỗi khẩu pháo. Điều này có thể thực hiện bằng cách gia tăng cỡ nòng của vũ khí, và do đó là trọng lượng quả đạn pháo, hoặc bằng cách kéo dài nòng pháo để làm tăng lưu tốc đầu đạn. Cả hai cách trên đều giúp cho việc gia tăng tầm bắn và độ đâm xuyên vỏ giáp.[44]Cả hai phương pháp đều có những ưu và khuyết điểm, cho dù nói chung lưu tốc đầu đạn lớn hơn sẽ làm gia tăng sự bào mòn trong lòng nòng pháo. Khi nổ súng, sự cháy của thuốc phóng bên trong khiến nòng súng bị mòn, mất độ chính xác và cuối cùng đòi hỏi phải thay thế. Có lúc điều này là cả một vấn đề; Hải quân Mỹ từng nghiêm túc xem xét đến việc phải ngưng thực tập tác xạ trên các cỡ pháo hạng nặng vào năm 1910 do vấn đề hao mòn nòng pháo.[45] Khuyết điểm của những khẩu pháo lớn hơn lại gấp đôi: trước tiên, cả pháo và tháp pháo đều nặng hơn nhiều, kế tiếp, quả đạn pháo nặng và chậm hơn đòi hỏi phải bắn ở một góc nâng cao hơn cho cùng một khoảng cách, ảnh hưởng đến thiết kế của tháp pháo. Tuy nhiên, ưu điểm lớn của việc gia tăng cỡ nòng là quả đạn pháo nặng hơn sẽ ít bị ảnh hưởng bởi lực cản của không khí, và giữ được sức mạnh đâm xuyên lớn hơn ở tầm xa.[46]
Hải quân các nước tiếp cận vấn đề về cỡ nòng theo những cách khác nhau. Hải quân Đức thường sử dụng một cỡ nòng nhỏ hơn so với tàu chiến Anh Quốc tương đương, như là cỡ nòng 305 mm (12 inch) vào lúc mà tiêu chuẩn của Anh đã tăng lên 343 mm (13,5 inch). Tuy nhiên, do ngành luyện kim của Đức tiến triển hơn, pháo 305 mm (12 inch) của Đức vượt trội hơn pháo 305 mm (12 inch) của Anh trong khía cạnh trọng lượng đạn pháo và lưu tốc đầu đạn; và vì khẩu pháo của Đức nhẹ hơn khẩu 343 mm (13,5 inch) của Anh, tàu chiến Đức có thể dành ra nhiều trọng lượng hơn cho vỏ giáp.[46]
Tuy nhiên, nhìn chung cỡ nòng của pháo có xu hướng ngày càng tăng. Trong Hải quân Hoàng gia, lớp Orion hạ thủy năm 1910 có mười khẩu pháo 13,5-inch, tất cả đều được bố trí dọc theo trục giữa; lớp Queen Elizabeth hạ thủy năm 1913, sử dụng tám khẩu 381 mm (15 inch). Tại tất cả hải quân của mọi nước, cỡ nòng pháo đều gia tăng và số lượng pháo có xu hướng giảm đi để bù trừ. Việc có ít khẩu pháo hơn làm cho việc phân bố chúng không còn là vấn đề lớn, và tháp pháo bố trí trên trục dọc con tàu trở thành một tiêu chuẩn thông thường.[47]
Một bước đi khác trong việc thiết kế thiết giáp hạm với pháo lớn hơn nữa, và được đặt lườn vào lúc Thế Chiến I kết thúc, đó là Lớp Nagato của Nhật Bản vào năm 1917 mang cỡ pháo 406 mm (16 inch). Ngay sau đó là lớp Colorado của Hải quân Mỹ. Cả Anh Quốc lẫn Nhật Bản đều nhanh chóng vạch kế hoạch cho những thiết giáp hạm trang bị pháo 457 mm (18 inch), trong trường hợp của Anh là lớp N3 và Nhật là lớp Số 13. Tuy nhiên, Hiệp ước Hải quân Washington đã khiến cho những kế hoạch này cùng với các khẩu pháo khổng lồ không bao giờ thể hiện bên ngoài bàn vẽ.[48]
Hiệp ước Hải quân Washington giới hạn pháo trang bị cho thiết giáp hạm ở cỡ nòng 406 mm (16 inch).[49] Các hiệp ước sau này tiếp tục duy trì giới hạn này, cho dù có những đề nghị nhằm giảm hơn nữa xuống còn 11, 12, hoặc 14 inch.[50] Những thiết giáp hạm duy nhất phá vỡ giới hạn này là lớp Yamato của Nhật Bản, bắt đầu vào năm 1937 sau khi Hiệp ước hết hiệu lực. Chúng có dàn pháo chính với cỡ nòng 460 mm (18,1 inch).[51] Trong khi Thế Chiến II trang diễn ra, Anh Quốc tận dụng các khẩu pháo 381 mm (15 inch) vốn được dự trữ để thay thế cho lớp Queen Elizabeth trang bị cho chiếc thiết giáp hạm cuối cùng của Anh Vanguard.[52]
Trong Thế Chiến II còn có một số thiết kế đề xuất một bước tiến mới trang bị vũ khí khổng lồ. Các thiết kế H-43 và H-44 của Đức đề xuất pháo cỡ 508 mm (20 inch), và có chứng cứ cho thấy Hitler mong muốn có cỡ nòng lên đến 609 mm (24 inch);[53] thiết kế lớp Siêu Yamato của Nhật Bản cũng trang bị pháo 508 mm.[54] Không có đề xuất nào trong số này tiến xa hơn bước thiết kế sơ thảo.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)